Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2016

Tìm hiểu câu chuyện: Định vị thương hiệu rất tuyệt, nhưng tái định vị rất tồi!

Tự nhận mình là “The Special One” nghe thật kiêu ngạo và ngông. Nhưng đó cũng là sự kiêu hãnh. Phải tự tin lắm và khác biệt lắm mới tuyên ngôn được như vậy. Nhưng bây giờ, truyền thông chẳng còn ưa gì khuôn mặt “Happy” mang vẻ hiền lành và cách nói chuyện nhã nhặn khác thường của Mr. Special One đâu.
Việc tự giới thiệu “tôi là ai” thực sự không hề đơn giản và có tiếng nói rất quyết định đến vị thế của một thương hiệu trong tâm trí khách hàng.
“Tôi là người đặc biệt”…
Năm 2004, một người đàn ông Bồ Đào Nha chân ướt chân ráo đến nước Anh, ngay lập tức gây sốc cho giới truyền thông “lắm chuyện” của xứ sở sương mù với tuyên bố đầy ngạo mạn: “ I am the special one” (Tôi là người đặc biệt). Kể từ đó, Jose Mourinho là thương hiệu được săn đón nhất với giới truyền thông.
Có một thực tế là thế giới bóng đá không thiếu những nhân vật tài năng lỗi lạc, nhưng không phải ai cũng tạo được thương hiệu “hot” như J. Mourinho.
Huấn luyện viên người Bồ Đào Nha này được coi là “dị nhân” với những thành tích lẫy lừng: vô địch quốc gia tại 4 câu lạc bộ khác nhau (Porto, Chelsea, Inter Milan và Real Madrid) và đã đưa 2/4 câu lạc bộ này tới đỉnh cao danh vọng là chức vô địch Champions League (Cúp C1 châu Âu).
Tài năng về chuyên môn là không phải bàn cãi, nhưng đó không phải lý do duy nhất biến J. Mourinho thành thương hiệu cuốn hút truyền thông đến thế. Thành công của Mourinho, một phần đến từ câu tuyên ngôn định vị thương hiệu “khác người” ở trên. Nhưng giờ đây, cuốn sách kể về Mourinho có vẻ đã sang trang khác.
“Hãy gọi tôi là người hạnh phúc”
Ai nói câu này? J.Mourinho đấy!
Trong lần thứ 2 quay lại nhận chức huấn luyện viên trưởng của Chelsea, trước báo giới J. Mourinho hào phóng “ban phát” “những lời có cánh” cho cánh phóng viên đang há hốc mồm kinh ngạc: “Khi làm huấn luyện viên lần đầu vào năm 2000, tôi cứ nghĩ mình biết hết thảy mọi thứ. Sau 13 năm tôi nhận ra rằng, mình chẳng biết gì. Mỗi ngày bạn luôn cần phải học tập”.
Ai sẽ hạnh phúc khi nghe những chia sẻ nhún nhường này? Là những người của Chelsea như Abramovich; giới cầu thủ hay người hâm mộ? Có thể lắm. Nhưng hạnh phúc và vui vẻ khác với ngưỡng mộ và tự hào.
Giới truyền thông từ Italy đến Tây Ban Nha nói chung không ưa gì người đàn ông Bồ Đào Nha “lắm mồm” này. Nhưng truyền thông cũng “chết mê chết mệt” vì sức hút rất đặc biệt của J. Mourinho.
Ông càng “nổ”, càng ngoa ngôn, báo chí càng bán chạy như tôm tươi. Khi tuyên bố: “Tôi là người hạnh phúc”, J. Mourinho hàm ý muốn tái định vị thương hiệu cá nhân từ “Đặc biệt” thành “Hạnh phúc”.
Tự nhận mình là “The Special One” nghe thật kiêu ngạo và ngông. Nhưng đó cũng là sự kiêu hãnh. Phải tự tin lắm và khác biệt lắm mới tuyên ngôn được như vậy. Nhưng bây giờ, truyền thông chẳng còn ưa gì khuôn mặt “Happy” mang vẻ hiền lành và cách nói chuyện nhã nhặn khác thường của Mr. Special One đâu.
Đơn giản vì giờ đây J. Mourinho có vẻ như không còn… đặc biệt nữa. Điều này đồng nghĩa thương hiệu cá nhân của ông không còn khác biệt nữa. Hãy hiểu cho Mourinho. Ông đành phải tái định vị bản thân thôi. Vì thời thế thế thời phải thế.
Cái ngày quay trở về “nơi tình yêu bắt đầu” – sân vận động Stamford Bridge, vị thế của ông đã không còn như xưa nữa rồi. Mùa giải trắng tay đầu tiên trong sự nghiệp của J. Mourinho tại Real Madrid đã phá hỏng tất cả.
Danh hiệu bằng không là một chuyện, nỗi đau hơn là vị thế long lanh oai hùng của kẻ tự nhận “chỉ đứng sau mỗi chúa Jesu” đã mất giá đi nhiều. Truyền thông chế diễu, cầu thủ coi thường J. Mourinho.
Ông “chạy trốn” khỏi xứ bò tót với câu tiễn biệt chua cay: “Ông là cái mụn trên bộ mặt của La Liga” từ Phó Chủ tịch Câu lạc bộ Barca.
Ông tổ marketing Philip Kotler đã nhận định: “Không có định vị nào thích hợp mãi mãi”. Tái định vị thương hiệu trong thế giới đang thay đổi nhanh chóng ngày nay là chiến lược rất cần thiết để không bị tụt hậu và đào thải khỏi cuộc chơi ngày càng cạnh tranh gay gắt.
Tuy nhiên, cho dù vì mục đích gì, muốn tái định vị thương hiệu thành công đều không được đi quá xa giá trị cốt lõi vốn là điểm khác biệt của thương hiệu đã được thị trường thừa nhận.
J. Mourinho đã rất xuất sắc khi “định vị” thương hiệu cá nhân của mình. Nhưng có vẻ như ông đã mất “phong độ” khi “tái định vị” nó.
Hình ảnh của J. Mourinho vốn được nhận biết với tính cách cao ngạo, mạnh mẽ và rất góc cạnh. Có thể người ta không thích ông, nhưng chắc chắn người ta phải tôn trọng và thậm chí nể ông.
Giờ đây, ông xuất hiện trước truyền thông với vẻ nhũn nhặn, khiêm tốn thái quá. Người ta có thể thích ông, nhưng không còn có cảm giác ngưỡng mộ và thậm chí sợ ông nữa.
Mọi thứ lại chỉ mới bắt đầu. Một khi quen làm “Người đặc biệt” rồi, biết đâu J. Mourinho sẽ rất khó chịu vì không quen phải vào vai “Người bình thường hạnh phúc”. Lúc đó liệu ông sẽ lại “ngứa mồm”, lại tiếp tục “nổ”, làm loạn giới truyền thông như ông đã làm “rất tốt” trước đây?

Chia sẻ với bạn về giá trị của bằng MBA trong mắt các CEO và nhà tuyển dụng

Theo Tony Beshara, chủ tịch của Babich & Associates sở hữu bằng MBA không thể khiến một ứng viên trở thành một nhân viên xuất sắc. Ông cho rằng những người có bằng MBA thành công trong vai trò lãnh đạo hoàn toàn có thể đạt được điều đó với kỹ năng của mình ngay cả khi không sở hữu bằng MBA.
Để sở hữu tấm bằng MBA của một ngôi trường danh giá trên thế giới, bạn có thể phải đầu tư số tiền lên đến 100.000 USD. Việc làm này có đáng hãy không? Hãy nghe những lời chia sẻ từ các CEO và nhà tuyển dụng trên thế giới.

MBA rất quan trọng nhưng bạn cần lựa chọn chương trình phù hợp với mình
Christine Ricci cho rằng sở hữu tấm bằng MBA là yếu tố quan trọng giúp bạn đạt được thành công trong thế giới kinh doanh hiện nay. Tuy nhiên, bà cũng lưu ý rằng không phải tất cả các tấm bằng MBA đều có giá trị như nhau. Điều quan trọng nhất là bạn phải lựa chọn được chương trình phù hợp với mình.
Bạn chỉ nên học ở những trường kinh doanh có uy tín
Theo Jonathan Guidi, chủ tịch của HealthCare Recruiters International, một tấm bằng MBA có thể là một tài sản nhưng chỉ khi bạn nhận nó vào thời điểm thích hợp và tại một ngôi trường thích hợp.
Guidi nhấn mạnh rằng MBA chỉ có giá trị khi nó được cấp bởi một ngôi trường có uy tín.
Các công ty mới khởi nghiệp không nhất thiết tìm kiếm ứng viên có bằng MBA
Doanh nhân Jay Bhatti, người đồng sáng lập ra Spock.com và là quản lý sản phẩm của Microsoft cho biết rất nhiều công ty mới khởi nghiệp không hề muốn tuyển dụng ứng viên có bằng MBA.
Bhatti đã có bằng MBA của trường Wharton, tuy nhiên anh tin rằng một người thành công sở hữu những yếu tố nhất định và MBA không phải là một trong số đó.

MBA không quan trọng
Theo Tony Beshara, chủ tịch của Babich & Associates sở hữu bằng MBA không thể khiến một ứng viên trở thành một nhân viên xuất sắc. Ông cho rằng những người có bằng MBA thành công trong vai trò lãnh đạo hoàn toàn có thể đạt được điều đó với kỹ năng của mình ngay cả khi không sở hữu bằng MBA.
Các công ty cần sự đa dạng hóa hơn là một tấm bằng MBA
Rich Lesser, CEO của Boston Consulting Group (BCG) cho biết các nhà tuyển dụng hiện nay không chỉ nhìn vào tấm bằng MBA của các ứng viên.

Hãy tích lũy kinh nghiệm trước khi nhận bằng MBA
Oliver Tomlin khuyến khích sinh viên có bằng MBA, tuy nhiên ông cho rằng sau khi ra trường họ nên đi làm một vài năm để tích lũy kinh nghiệm trước khi quay trở lại trường và học MBA.
Bằng MBA không thể giúp bạn có việc làm nhưng sẽ giúp bạn thực hiện công việc của mình tốt hơn
Theo Tom Becker, phó chủ tịch tuyển dụng của Experis, sở hữu bằng MBA có thể không giúp một sinh viên có được lợi thế khi phỏng vấn nhưng khi được tuyển dụng, nó có thể giúp anh ta hoàn thành công việc của mình.
Theo Becker, những kỹ năng học được từ trường kinh doanh như phân tích số liệu chẳng hạn sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc.

Giới thiệu với bạn về việc đo lường social media

Do không có cái nhìn tổng thể, DN không có sự sáng tạo hay đổi mới trong các kế hoạch marketing. Trong khi đó, nếu đo lường hiệu quả trên social media sẽ giúp DN khảo sát người tiêu dùng nhanh chóng, tiết kiệm thời gian khi tung ra một sản phẩm mới, dịch vụ mới hoặc gia tăng độ nhận biết thương hiệu.
Số lượng người sử dụng internet lên tới gần một phần ba dân số và 79% người sử dụng truyền thông xã hội tại Việt Nam có link hoặc theo dõi một nhãn hiệu nào đó. Vì thế, social media hiện nay đã được nhiều DN ứng dụng trong các chiến dịch marketing.
Tuy nhiên, do ít quan tâm đến các báo cáo về các số liệu đo lường nên DN không nhận ra tầm quan trọng cũng như lợi ích có được từ kênh truyền thông mới này.
Để đo lường hiệu quả của social media, đa số DN chỉ thống kê lượng truy cập vào trang web, tổng doanh thu nhưng chưa liệt kê được từng doanh thu của họ đến từ kênh nào, hình thức nào để có các điều chỉnh ngân sách và chiến lược marketing phù hợp.
Hoặc nếu chiến dịch social media có mục tiêu là làm thương hiệu, thì các dữ liệu thu thập phải liên quan đến việc hiển thị các thông điệp trên các trang web, quan điểm, nhận xét của khách hàng như thế nào, số lượng lời bình là bao nhiêu...
Do không có cái nhìn tổng thể, DN không có sự sáng tạo hay đổi mới trong các kế hoạch marketing. Trong khi đó, nếu đo lường hiệu quả trên social media sẽ giúp DN khảo sát người tiêu dùng nhanh chóng, tiết kiệm thời gian khi tung ra một sản phẩm mới, dịch vụ mới hoặc gia tăng độ nhận biết thương hiệu.
Dựa trên kết quả đo lường này, DN còn có thể đánh giá, khảo sát thị trường, phân tích đối thủ cạnh tranh để từ đó có thể tìm ra những cách thức mới sáng tạo hơn hay điều chỉnh hợp lý hơn cho kế hoạch marketing, chiến lược kinh doanh...
Vì thế, trong một chiến dịch social media hoặc social marketing, DN không nên chỉ chú trọng đặt mục tiêu cũng như xem xét kết quả từ khía cạnh một bộ phận chuyên trách về marketing, mà cần kết hợp với các phòng ban chuyên ngành khác như: bộ phận thương hiệu, sản phẩm, kinh doanh, nghiên cứu thị trường, nhân sự, chăm sóc khách hàng... để có cái nhìn bao quát nhất.
Những người phải bỏ tiền ra cho chi phí marketing luôn muốn đo lường ROI (return on investment - lợi nhuận đầu tư) trong các chiến dịch social media. Thông thường, để đo lường hiệu quả ROI trên truyền thông xã hội, các nhà quản trị có những chỉ số KPI cần theo dõi như: lưu lượng truy cập website đến từ SEO; đo lường tương tác của khách viếng thăm với website; trải nhiệm của người dùng trên website; theo dõi số khách viếng thăm có mua hàng, quyên góp; theo dõi sự tương tác với thương hiệu...
Theo bà Tan Hui Woon, Giám đốc Chiến lược Brandmaker Co.,Ltd, có ba bước quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả kế hoạch social media, gồm: xác định chiến lược, lên kế hoạch để thành công, chọn đúng công cụ. Về công cụ, Google Analytics vẫn là công cụ phổ biến nhất trong đo lường, ngoài ra cũng có những công cụ miễn phí khác khá hiệu quả như:
- Facebook Insight: cho phép người quản trị Fanpage phân tích sâu hơn không chỉ những tương tác của người hâm mộ (fans) mà còn cả những tương tác của cộng đồng Facebook với nội dung của Fanpage.
- Plugin Social Media Metrics cho Greasemonkey: hiển thị danh sách đầy đủ các chia sẻ lên mạng xã hội trong Google Analytics.
- YouTube Insight: phân tích bên trong trang YouTube, cho biết mức phổ biến của video, lượt xem và nhiều thông số khác.
- ShareThis: kết hợp với Google Analytics có thể cho biết kênh social nào trên website của bạn được người dùng ưa dùng để chia sẻ.
Ông Phan Tiến Đông, Quản lý phát triển sản phẩm Fifth iMedia, cũng giới thiệu một số công cụ mà Công ty đang áp dụng tại thị trường Việt Nam. Trong đó, Social Monitoring Tools với chức năng lập kế hoạch và quản lý rủi ro cho chiến dịch truyền thông, truyền tải thông tin trên diện rộng qua hệ thống những người có sức ảnh hưởng trên Internet qua influencer Tools.
Social Ads Optimize với chức năng tối ưu hóa quảng cáo trên internet, mang lại hiệu quả cao cho chiến dịch quảng cáo của các nhãn hàng. Mặt khác, Social Insight dựa trên các tiêu chí đã đưa ra những so sánh chính xác với đánh giá cụ thể và phân tích sâu sắc.

Chia sẻ với bạn về 15 quy tắc ứng xử trong kinh doanh

Bạn nên làm việc này trong vòng 24 giờ để bày tỏ sự biết ơn với những người có liên quan. Trước khi chọn gửi email hay thư tay, hãy cân nhắc kỹ vì thư tay sẽ mất vài ngày, còn email có thể gửi ngay lập tức. Việc này rất quan trọng trong những trường hợp như phỏng vấn xin việc, khi quyết định được đưa ra gần như ngay lập tức.
Các quy tắc ứng xử trong kinh doanh rất khác so với chuẩn mực xã hội thông thường, mà hầu như lại không được dạy trong trường đại học. Trong cuốn sách "Sự cần thiết của phép lịch sự trong kinh doanh", tác giả Barbara Pachter đã viết về các kỹ năng cần thiết dành cho mọi người khi để ứng xử trong môi trường kinh doanh, từ giới thiệu bản thân đến cách ăn uống trong nhà hàng.
1. Luôn sử dụng tên thật
Trong môi trường kinh doanh, bạn nên sử dụng tên đầy đủ, nhưng cũng phải chú ý cách người khác muốn được giới thiệu. Nếu tên bạn quá dài hay khó đọc, bạn có thể thay đổi, rút gọn, hoặc viết cách phát âm lên danh thiếp và đưa cho đối tác.
2. Luôn đứng lên khi được giới thiệu
Hãy đứng dậy khi được giới thiệu với người khác. Việc đó sẽ giúp bạn nhấn mạnh sự có mặt của mình và thu hút ánh nhìn của mọi người.
3. Chỉ nói "Cảm ơn" một hoặc hai lần trong cuộc trò chuyện
Cảm ơn quá nhiều sẽ khiến câu nói này mất đi ý nghĩa. Thậm chí, nó còn có thể khiến bạn biến thành một người yếu ớt và thiếu thốn.
4. Gửi thư cảm ơn đến từng người
Bạn nên làm việc này trong vòng 24 giờ để bày tỏ sự biết ơn với những người có liên quan. Trước khi chọn gửi email hay thư tay, hãy cân nhắc kỹ vì thư tay sẽ mất vài ngày, còn email có thể gửi ngay lập tức. Việc này rất quan trọng trong những trường hợp như phỏng vấn xin việc, khi quyết định được đưa ra gần như ngay lập tức.
5. Đừng bao giờ kéo ghế cho người khác
Giữ cửa mở cho khách là việc nên làm. Nhưng theo Pachter, bạn không nên kéo ghế cho người khác, bất kể giới tính.
Trong môi trường kinh doanh, hãy bỏ tất cả phép lịch sự xã hội ấy ra đằng sau đi, vì "cả đàn ông và phụ nữ đều có thể tự kéo ghế cho mình".
6. Đừng bắt chéo chân
Mọi người rất hay làm hành động đó. Tuy nhiên, trong môi trường kinh doanh, việc này sẽ làm phân tán sự chú ý và có vẻ gợi cảm quá mức.
Theo Pachter, một nguyên nhân quan trọng nữa là bắt chéo chân không hề tốt cho tuần hoàn máu, vì nó làm tăng áp lực lên tĩnh mạch.
7. Dùng cả bàn tay để chỉ
Khi cần chỉ vào người hay vật gì đó, hãy mở cả lòng bàn tay và giữ các ngón dính sát nhau. Nếu bạn chỉ dùng ngón trỏ, đó sẽ là hành động biểu lộ sự hiếu chiến. Cả đàn ông và phụ nữ đều hay chỉ trỏ, nhưng phụ nữ thường làm nhiều hơn.
8. Luôn dùng tay bẻ bánh mì
Pachter khuyên bạn đừng bao giờ dùng dao để cắt bánh mì trong bữa ăn mang tính kinh doanh. Thay vào đó, hãy dùng tay để bẻ làm đôi và xé nhỏ.
9. Đừng gạt đĩa ra hay chồng chúng lại với nhau
Theo Pachter, lý do rất đơn giản: "Bạn không phải là bồi bàn, vì thế, hãy để họ làm việc đó".
10. Đừng bao giờ gói thức ăn mang về
Bạn ở đây để kinh doanh, chứ không phải giải quyết hàng tồn kho. Gói thức ăn thừa mang về là việc hoàn toàn bình thường nếu đi ăn cùng gia đình, nhưng nếu đi với đối tác thì không nên.
11. Chọn thức ăn tương đương với khách
Điều này có nghĩa là nếu khách gọi món khai vị hay tráng miệng, bạn cũng nên gọi theo. Đơn giản là vì việc đó sẽ không khiến khách cảm thấy lúng túng vì ngồi ăn một mình.
12. Nếu người mời đang ăn kiêng, phải cân nhắc nhà hàng họ đưa bạn tới trước khi gọi món
Phần lớn mọi người sẽ không bắt người khác ăn kiêng theo mình. Tuy nhiên, bạn có thể quyết định nên gọi món gì khi cân nhắc nhà hàng họ dẫn bạn tới.
Ví dụ, nếu giám đốc của bạn là người ăn chay, nhưng lại hẹn gặp ở nhà hàng thịt nướng, bạn hoàn toàn có thể gọi thịt như bình thường.
13. Biết chỗ đặt đĩa và dụng cụ ăn
Thức ăn luôn được đặt bên trái đĩa. Nếu bàn ăn được sắp đúng, bánh mì, salad hay các món khác đều sẽ ở vị trí như vậy. Tương tự, đồ uống được đặt bên phải. Với các dụng cụ khác, dĩa đặt bên trái, còn dao và thìa thì ở bên phải.
14. Người mời nên trả tiền
Nếu bạn là người mời, bạn là chủ nhân và sẽ phải trả tiền, bất kể là nam hay nữ. Trường hợp bạn là phụ nữ, và có khách nam muốn trả thay, bạn có thể nói: “Ôi, tôi có tốn xu nào đâu, công ty trả đấy chứ”, hoặc kín đáo rời bàn và thanh toán khi các vị khách không để ý. Tuy nhiên, nếu khách kiên quyết muốn trả, đừng tranh cãi với họ, cứ để họ làm như vậy đi.
15. Hãy rời đi thật lịch sự
Nếu là người rời đi, bạn nên là người mở lời. Nên nhớ vừa nói vừa đi, như vậy, bạn sẽ ở thế chủ động và việc tạm biệt cũng suôn sẻ. Các mẫu câu thường dùng là “Rất vui được gặp anh/chị”, “Rất vui được nói chuyện với anh/chị” hay “Hẹn gặp lại trong buổi họp tuần sau nhé”.

Tìm hiểu vấn đề: Đừng để nhân viên… ở giữa

Ngoài ra, khi khối lượng công việc nhiều, khi sếp nào cũng cho rằng công việc của phòng ban mình cần ưu tiên, nhân viên dễ rơi vào tình huống khó xử khi không biết phải thực hiện công việc nào trước, việc nào sau để làm hài lòng cả hai sếp. Họ dễ bị căng thẳng về thần kinh, khó tập trung làm tốt công việc bởi lo đối phó với cả hai sếp nhiều hơn. Hiệu quả công việc chung bị ảnh hưởng xấu.
Cách làm này không những giảm đáng kể chi phí nhân lực mới mà còn giúp nhân viên có thêm thu nhập từ công việc “ngoài luồng”, tránh được những bỡ ngỡ về môi trường làm việc và các mối quan hệ mà một nhân viên hoàn toàn mới phải đối mặt.
Tuy nhiên, nếu không biết cách sắp xếp công việc cho hợp lý, cách làm này dễ làm nảy sinh mâu thuẫn giữa những người quản lý tại các phòng ban khác nhau mà nhân viên đó làm việc. Việc “tranh giành” người lao động phục vụ cho công việc phía mình là điều có thể xảy ra giữa những người quản lý.
Khi khối lượng công việc nhiều, khi sếp nào cũng cho rằng công việc của phòng ban mình cần ưu tiên, nhân viên dễ rơi vào tình huống khó xử khi không biết phải thực hiện công việc nào trước, việc nào sau để làm hài lòng cả hai sếp
Không những vậy, nhân viên cũng sẽ phải đối mặt với áp lực công việc đến từ cả hai phía, đặc biệt khi tính chất công việc giữa các bên có sự mâu thuẫn với nhau. Khi đó, khoản phụ cấp cho phần công việc “ngoài luồng” có thể là không thỏa đáng cho những áp lực khi chịu sự quản lý trực tiếp, ngang hàng từ cả hai sếp.
Ngoài ra, khi khối lượng công việc nhiều, khi sếp nào cũng cho rằng công việc của phòng ban mình cần ưu tiên, nhân viên dễ rơi vào tình huống khó xử khi không biết phải thực hiện công việc nào trước, việc nào sau để làm hài lòng cả hai sếp. Họ dễ bị căng thẳng về thần kinh, khó tập trung làm tốt công việc bởi lo đối phó với cả hai sếp nhiều hơn. Hiệu quả công việc chung bị ảnh hưởng xấu.
Việc giao cùng lúc hai hay nhiều công việc khác nhau cho mỗi nhân viên cũng ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi và trách nhiệm của họ. Khi lượng công việc giữa các bên tương đương nhau, họ khó xác định được ai là người quản lý trực tiếp và chính thức của mình, nên khi gặp khó khăn sẽ không biết nhờ sự can thiệp từ phía nào.
Một điều cũng dễ xảy ra là tâm lý lảng tránh trách nhiệm. Với việc viện lý do bận công việc của bên kia, nhân viên có thể từ chối công việc của sếp bên này giao cho dù thực sự họ có nhiều thời gian rảnh.
Việc tận dụng khoảng thời gian rảnh rỗi của nhân viên để khai thác hiệu quả hơn lượng sức lao động mà mình đã bỏ tiền ra mua sẽ giúp các ông chủ tiết kiệm đáng kể chi phí nhân lực. Tuy nhiên, dù để nhân viên đồng thời làm hai hay nhiều việc, cũng cần xác định rõ ràng đâu là công việc chính, đâu là công việc làm thêm của họ và ranh giới giữa các công việc. Có như vậy, nhà quản lý mới sử dụng được một cách tốt nhất sức lao động của nhân viên, thực hiện tốt hoạt động kiểm soát, đồng thời giúp nhân viên có tâm lý hoàn toàn thoải mái, nhiệt tình với công việc.

Cùng tìm hiểu vấn đề: Truyền thông qua fanpage: Kiên trì mới mong thắng

Để fanpage mang lại hiệu quả, nhà quản trị cũng phải thực sự tỉ mỉ trong mọi việc liên quan tới việc post bài, như thời gian post bài, thời gian comment, số lượng ký tự trong mỗi bài đăng, cách post hình ảnh, cách chọn nội dung sao cho ít nhiều liên quan tới việc quảng bá của công ty nhưng không mang tính PR thái quá…, đồng thời thường xuyên đo lường mức độ tương tác của fan.
Là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng người dùng Facebook cao nhất châu Á, tổng số thành viên tham gia mạng xã hội này ở Việt Nam ngày càng tăng. Trong vài năm trở lại đây, hàng loạt fanpage đã được thành lập, tuy nhiên, không phải trang nào cũng thành công.
Việc đẩy mạnh tương tác với độc giả nhằm giúp fanpage phát triển đã khó, nhưng để duy trì sự phát triển ấy và khiến nó mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp lại càng khó hơn. Thực tế cho thấy, nhiều fanpage được lập ra nhưng nhà quản trị ít bỏ công “nuôi dưỡng” nên không thể khai thác được khía cạnh truyền thông của nó.
Người xem có thể dễ dàng click vào nếu quan tâm, nhưng cũng sẵn sàng lờ nếu họ không thích
Tuy góp phần đáng kể trong việc tiết kiệm chi phí marketing, nhưng việc duy trì hoạt động của một fanpage sẽ tiêu tốn lượng thời gian đáng kể, từ việc thành lập trang cho tới các hoạt động để thu hút sự chú ý bằng cách thường xuyên tổ chức các cuộc thi, trò chơi hay, với những phần thưởng hấp dẫn dành cho người chơi…
Để fanpage mang lại hiệu quả, nhà quản trị cũng phải thực sự tỉ mỉ trong mọi việc liên quan tới việc post bài, như thời gian post bài, thời gian comment, số lượng ký tự trong mỗi bài đăng, cách post hình ảnh, cách chọn nội dung sao cho ít nhiều liên quan tới việc quảng bá của công ty nhưng không mang tính PR thái quá…, đồng thời thường xuyên đo lường mức độ tương tác của fan.
Người làm công việc quản trị fanpage cần hiểu, người xem có thể dễ dàng click vào nếu quan tâm, nhưng cũng sẵn sàng lờ đi những quảng cáo, giới thiệu về sản phẩm, dịch vụ, chương trình khuyến mãi của công ty bạn nếu họ không thích. Do vậy, việc tăng số lượng fan là rất cần thiết, nhưng làm sao để các thông điệp được nhiều người biết đến lại là một chuyện đáng quan tâm khác.
Để có thể làm tăng lượng fan của fanpage, nhà quản trị cũng không thể hoạt động đơn lẻ mà cần phải tăng cường liên kết với các thành viên khác, các fanpage khác để kết nối và quảng bá fanpage của mình…
Cùng với sự phát triển nở rộ của fanpage, các dịch vụ ăn theo như tăng số lượng like cũng ra đời để giúp các doanh nghiệp có được một fanpage hiệu quả. Tuy nhiên các dịch vụ này vẫn còn bị nghi ngờ về hiệu quả thực sự, nên nhiều doanh nghiệp vẫn tự tay làm công việc duy trì và nâng cao hiệu quả fanpage của mình.
Internet phát triển, các fangape xuất hiện như là một kênh truyền thông mới với chi phí thấp và hứa hẹn mang lại hiệu quả không hề nhỏ. Đối với doanh nghiệp, fanpage là nơi giao lưu, tương tác giữa doanh nghiệp và khách hàng. Việc duy trì một fanpage giúp cho công việc kinh doanh và thương hiệu của doanh nghiệp được nhiều khách hàng biết đến. Nhưng để đạt được những điều đó, nhà quản trị rất cần tới sự kiên trì.
Những fanpage thành công đều là kết quả của một quá trình xây dựng bền bỉ.

Có thể bạn chưa biết: Cú chuyển hướng lịch sử của P&G

Ông Lafley mới một lần nữa nhậm chức CEO tại P&G. Ông từng giữ cương vị này trong thời gian từ năm 2000-2009. Việc ông Lafley trở lại ghế CEO diễn ra trong bối cảnh P&G chứng kiến lợi nhuận quý 2 giảm 48% so với cùng kỳ năm ngoái, còn 1,9 tỷ USD, do chi phí tái cơ cấu và một số chi phí khác. Doanh thu của hãng trong quý tăng nhẹ lên 20,7 tỷ USD.
“Đại gia” hàng tiêu dùng Procter & Gamble (P&G) hiện đang dành hơn 1/3 ngân sách quảng bá sản phẩm tại Mỹ để quảng cáo trực tuyến. Theo tờ Wall Street Journal, đây là một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong bối cảnh, 2013 được dự báo sẽ là năm đầu tiên trong lịch sử người Mỹ dành nhiều thời gian trên mạng hơn xem truyền hình.
ViệcP&G ngày càng nhấn mạnh vào quảng cáo trực tuyến phản ánh xu hướng dịch chuyển về phía Internet của người tiêu dùng, đồng thời cũng là mong muốn của công ty muốn cải thiện hiệu quả của những khoản tiền chi ra cho quảng cáo.
CEO A.G. Lafley của P&G cho biết, chi cho hoạt động quảng bá sản phẩm trên truyền thông kỹ thuật số như quảng cáo trực tuyến và trên các mạng xã hội hiện chiếm 25-35% tổng ngân sách quảng cáo của hãng. Riêng tại Mỹ, thị trường lớn nhất của P&G, thì mức chi đã đạt tới gần cận trên của khoảng dao động được đề cập.
Như vậy, tỷ lệ chi cho quảng cáo trực tuyến của P&G đã vượt mức trung bình ước tính vào khoảng 20-25% so với tổng ngân sách quảng cáo như thường thấy ở các công ty nói chung.
Con số này cũng cho thấy rõ nét mối đe dọa mà quảng cáo trực tuyến gây ra cho các dạng quảng cáo truyền thống như quảng cáo trên báo in.
P&G dự kiến chi nhiều hơn cho quảng cáo trong tài khóa hiện tại. Việc hãng này ngày càng nhấn mạnh vào quảng cáo trực tuyến phản ánh xu hướng dịch chuyển về phía Internet của người tiêu dùng, đồng thời cũng là mong muốn của công ty muốn cải thiện hiệu quả của những khoản tiền chi ra cho quảng cáo.
Các nhà điều hành của P&G nói rằng, trong nhiều trường hợp, truyền thông trên các phương tiện kỹ thuật số là cách nhanh hơn và rẻ hơn để các thương hiệu của hãng tiếp cận với người tiêu dùng, và cũng để nhận được phản hồi nhanh hơn từ phía khách hàng.
“Tóm lại, chúng tôi cần và muốn có mặt ở nơi mà có người tiêu dùng ở đó. Người tiêu dùng thì đang đến ngày càng nhiều hơn với Internet và di động”, một phát ngôn viên của P&G nói.
Ông Lafley mới một lần nữa nhậm chức CEO tại P&G. Ông từng giữ cương vị này trong thời gian từ năm 2000-2009. Việc ông Lafley trở lại ghế CEO diễn ra trong bối cảnh P&G chứng kiến lợi nhuận quý 2 giảm 48% so với cùng kỳ năm ngoái, còn 1,9 tỷ USD, do chi phí tái cơ cấu và một số chi phí khác. Doanh thu của hãng trong quý tăng nhẹ lên 20,7 tỷ USD.
Hoạt động kinh doanh của P&G được phát triển trên cơ sở nghiên cứu sâu về người tiêu dùng và những sản phẩm chất lượng được quảng cáo rộng rãi như bột giặt Tide, kem dưỡng da Olay… mà chủ yếu là quảng cáo trên truyền hình.
Nhưng nền tảng đó đang có sự thay đổi. Suy thoái kinh tế đã khiến người tiêu dùng trở nên tiết kiệm hơn, và hiện có rất nhiều cách để gây ảnh hưởng tới người tiêu dùng thông qua Internet và công nghệ di động.
Theo hãng nghiên cứu eMarketer, thời gian trung bình mà người tiêu dùng Mỹ dành cho truyền thông kỹ thuật số có thể lần đầu tiên vượt thời gian xem truyền hình trong năm nay.
Hãng này ước tính, mỗi người trưởng thành bình thường ở Mỹ sẽ dành khoảng 5 giờ mỗi ngày trên mạng thông qua các thiết bị di động hoặc thiết bị khác trong năm nay. Ngược lại, thời gian xem TV của người đó sẽ chỉ còn 4 giờ và 31 phút mỗi ngày.
Dữ liệu từ các công ty nghiên cứu hàng đầu cho thấy, năm ngoái, các công ty sản xuất hàng tiêu dùng đóng gói ở Mỹ chi khoảng 13,4 tỷ USD cho quảng cáo. Trong đó, 22,2% được chi cho quảng cáo trên truyền thông kỹ thuật số. Năm 2011, tỷ lệ này là 19,3%.
Hiện P&G chưa đưa ra con số cụ thể về mức chi quảng cáo trong năm tài khóa vừa kết thúc mới đấy của hãng. Trong tài khóa vừa rồi, doanh thu của P&G vượt 84 tỷ USD.
Trong tài khóa 2012, P&G chi 9,3 tỷ USD cho quảng cáo, bao gồm quảng cáo trên truyền hình, truyền thanh, báo in, Internet, và quảng cáo tại các cửa hiệu. Bắc Mỹ là thị trường đóng góp 1/3 doanh thu của P&G, và cũng là thị trường mà hãng này chi nhiều nhất cho quảng cáo.
CEO Lafley cho biết, chi quảng cáo trên mạng của P&G khác nhau đối với từng sản phẩm. Theo CEO này, đối với một số mảng sản phẩm, “quảng cáo trên truyền thông kỹ thuật số hiệu quả đến mức khó tin, và chúng tôi sẽ sử dụng hình thức này nhiều hơn”.
Tã giấy Pampers, lăn khử mùi Secret, và các sản phẩm chăm sóc cá nhân cho nam giới là một vài trong số những sản phẩm mà P&G lấy quảng cáo trực tuyến làm trọng tâm.
Việc P&G tăng cường quảng cáo trực tuyến diễn ra trong lúc loại hình quảng cáo này ngày càng “lấn sân” quảng cáo truyền hình. Chi quảng cáo trên các phương tiện truyền thông kỹ thuật số ở Mỹ năm nay được dự báo tăng 14%, đạt mức 41,9 tỷ USD, trong khi chi cho quảng cáo truyền hình có thể chỉ tăng 3%, đạt mức 66,4 tỷ USD - theo eMarketer.
Các thiết bị di động là đối tượng hưởng lợi lớn nhất trong xu hướng dịch chuyển sự chú ý này của người Mỹ.
Người trưởng thành ở nước này được eMarketer dự báo sẽ dành bình quân 2 giờ 21 phút mỗi ngày trên các thiết bị như điện thoại thông minh và máy tính bảng để làm những việc không phải là gọi điện. Khoảng thời gian này dài hơn thời gian mà họ lên mạng bằng máy tính để bàn và máy tính xách tay, đồng thời tăng gần nửa giờ đồng hồ so với thời gian họ dành cho các thiết bị di động trong năm 2012.

Chia sẻ với bạn vấn đề: SEO có thể làm hại thứ hạng của website

Thế nhưng, hiện nay điều này không còn đúng nữa. Để được xếp hạng cao, các cụm từ cần được xuất hiện bình thường. Điều đó có nghĩa nếu bạn có 10.000 từ khóa cho một cụm từ mà bạn muốn nâng hạng, nó có thể không được Google đánh giá cao. Bạn phải có nhiều từ khóa liên quan cho những từ đa dạng.
Chẳng hạn, Fiverr là một website phổ biến mà mọi người thường mua liên kết, chỉ với 5USD bạn có thể có hàng trăm liên kết tự động đến với trang web chỉ với một cú click chuột. Nhưng, có phải tất cả những website đó đều có liên quan đến ngành nghề mà bạn đang kinh doanh?
Chúng có nổi tiếng không? Bằng công cụ tìm kiếm và đánh giá của mình, Google có thể biết bạn có đang sử dụng dịch vụ back-link hay không, nếu có, Google sẽ khiến trang web của bạn biến mất khỏi bảng kết quả tìm kiếm.
Nội dung không liên quan: Khi bạn tạo ra nội dung cho website, hãy nhớ nội dung phải liên quan đến ngành kinh doanh, khách hàng của mình. Trong con mắt của Google, những trang web có chứa nội dung không liên quan sẽ không được đánh giá cao.
Vì vậy, khi viết nội dung cho website, hãy luôn nhớ đến nhu cầu của khách hàng cũng như mục tiêu của công ty. Ví dụ, khi kinh doanh cửa hàng thú cưng, bạn muốn bán những chú chó và chỉ xoay quanh các chữ: "Tôi muốn bán một con chó”. Nhưng khi một ai đó muốn mua một chú chó, họ sẽ quan tâm đến các vấn đề như đó là giống chó gì, nó hay ăn thức ăn gì...
Hãy nghĩ về tất cả những gì liên quan đến cuộc sống của một chú chó để xây dựng một nội dung hiệu quả. Điều này sẽ giúp bạn nâng cao vị trí xếp hạng của mình, khi bạn cũng gián tiếp cho Google thấy rằng, trang web có sự nghiên cứu, cung cấp thông tin đa dạng, hữu ích cho người dùng.
Spam bình luận: Một vài doanh nghiệp chi trả một khoản tiền không nhỏ cho việc spam bình luận có kèm đường dẫn trở về công ty họ ở các website, bài viết có liên quan đến lĩnh vực công ty đang kinh doanh.
Điều này có thể gây tác dụng tiêu cực khi khách hàng hoặc khách hàng tiềm năng của bạn nhìn thấy những bình luận vội vàng, cẩu thả, nghèo nàn về nội dung, không chỉ trên các website khác mà cả trên website của chính công ty bạn.
Hãy chú trọng đến chất lượng hơn là số lượng của các bình luận. Hãy để ý đến những bình luận mang đến giá trị đích thực cho khách hàng. Điều này sẽ giúp bạn tăng hạng cho website của mình.
Quá tải Anchor text link: Anchor text là đoạn văn bản được dùng để hiển thị link và được mọi người sử dụng để link tới site của bạn. Nói một cách khác, chính là đoạn text link cụ thể mà người dùng nhấp vào.
Ví dụ: Chúng ta có một text link "dịch vụ seo", thì cụm từ "dịch vụ seo" chính là anchor text. Các nhà viết web thường cho ra hàng trăm anchor text link với các cụm từ đặc biệt và nghĩ rằng điều đó sẽ giúp họ nâng hạng website.
Thế nhưng, hiện nay điều này không còn đúng nữa. Để được xếp hạng cao, các cụm từ cần được xuất hiện bình thường. Điều đó có nghĩa nếu bạn có 10.000 từ khóa cho một cụm từ mà bạn muốn nâng hạng, nó có thể không được Google đánh giá cao. Bạn phải có nhiều từ khóa liên quan cho những từ đa dạng.
Nếu muốn nâng hạng cho cụm từ "Tôi muốn mua một con chó” thì nên xây dựng các nchor như sau: Tôi muốn mua một con chó; sở hữu một con chó; các cách để mua một con chó; các loại chó.
Đấy là tất cả những gì khách hàng có thể muốn biết khi tìm kiếm cụm từ "Tôi muốn mua một con chó”. Hãy chắc rằng, không xây dựng quá nhiều link tập trung hay xây dựng những đường dẫn quá cao siêu, không được nhiều người bình thường nghĩ đến. Xây dựng từ khóa là cho người sử dụng chứ không phải cho các công cụ tìm kiếm.

Cùng khám phá về 5 sai lầm phổ biến của nhà đầu tư non kinh nghiệm

Một canh bạc lớn thường sinh lời lớn nếu nhận định của bạn là đúng, nhưng nó cũng có thể gây thiệt hại nghiêm trọng nếu điều ngược lại xảy ra. Do đó tốt hơn hết hãy chọn giải pháp an toàn và đa dạng hóa danh mục, cho dù điều đó có nghĩa là bạn không thể đầu tư “tất tay’ với mã cổ phiếu yêu thích.
Với việc thị trường chứng khoán đang tốt lên, kinh tế vĩ mô ổn định trong khi lãi suất tiền gửi đã giảm mạnh, sức hút từ chứng khoán dường như đang tăng lên. Dù vậy, với những ai non kinh nghiệm, 5 bài học sau là điều cần nhớ để tránh phạm sai lầm.
Những sai lầm lớn nhất các nhà đầu tư non trẻ gặp phải thường là các vấn đề về tâm lý, và một khi nắm rõ những cạm bẫy này, hiệu quả đầu tư sẽ tăng đáng kể.
Dưới đây là 5 sai lầm phổ biến của nhà đầu tư non trẻ tại thị trường Mỹ, được tờ USA Today đúc kết, rất đáng để những ai có ý định gia nhập thị trường chứng khoán cân nhắc.
1. Chạy theo đám đông
Bất kỳ ai bước vào thị trường đều thuộc lòng cụm từ “mua thấp, bán cao”. Nhưng thường thì điều thực sự xảy ra trên thị trường lại ngược lại, bởi các mã đầu tư “hot” luôn được báo giới nhắc đến nhiều, khiến nhà đầu tư nôn nóng và mua vào ở mức giá rất cao sau khi đà đi lên đã gần hết.
Ví dụ như Tesla, công ty sản xuất xe điện đang rất “hot” tại Mỹ với giá IPO năm 2010 chỉ là 17 USD/cổ phiếu, trong khi mức giá hiện tại là 135 USD/cổ phiếu.
Tuy nhiên chỉ trong hai phiên 15 và 16/7 vừa qua, Tesla đã mất tới hơn 15% giá trị. Trong khi các nhà đầu tư mua vào sớm vẫn lời lớn thì những ai theo sau sẽ phải chịu tổn thất nặng nề.
Do vậy các nhà đầu tư hãy luôn nhớ rằng diễn biến của thị trường luôn dịch chuyển theo cả hai phía, và không nên đưa ra quyết định đầu tư chỉ dựa trên độ “hot” của một mã nào đó.
2. Không chốt lời đúng lúc
Một mặt khác của câu “mua thấp, bán cao” mà những nhà đầu tư non trẻ thường quên mất đó là cần phải biết chốt lời khi giá cao. Thường thì một khi đã quá “yêu” một mã nào đó đang tăng trưởng tốt, những nhà đầu tư non kinh nghiệm sẽ kỳ vọng rằng nếu mã đó đã tăng được 5% trong năm nay thì có thể tăng thêm 50% trong năm tới.
Thực tế thì những diễn biến như vậy không nhiều và sẽ là an toàn hơn khi giảm bớt lượng cổ phiếu nắm giữ trước khi giá quay đầu giảm.
Ví dụ, nếu bạn bán bớt một nửa số cổ phiếu, bạn đã chốt được một số lời nhất định trong khi vẫn còn khả năng thu thêm lời nếu giá còn tiếp tục tăng. Ngược lại, tổn thất bạn phải chịu sẽ không quá nặng nề.
3. Không chịu cắt lỗ
Ngược lại với trường hợp trên, việc chấp nhận bán đi một khoản đầu tư tồi cũng khó khăn không kém. Không ai muốn bị thua lỗ, và người ta thường tự nhủ rằng những đợt sụt giá mạnh này sẽ sớm kết thúc và chỉ cần chờ thêm một chút nữa là giá sẽ phục hồi.
Nếu rơi vào tình trạng này, bạn cần nhớ rằng nếu bạn nắm giữ một cổ phiếu đang lao dốc, và cần phải đợi giá tăng thêm 20% mới hòa vốn, không có quy tắc nào đòi hỏi bạn phải đợi để đạt được 20% đó thay vì chọn một mã chứng khoán khác.
Vậy thì tại sao không chuyển hướng dòng vốn? Việc lựa chọn một mã cổ phiếu mới với tương lai tươi sáng hơn thường dễ dàng hơn việc chờ đợi một công ty đã “ốm yếu” xoay chuyển được cục diện.
4. Tham lam
Nếu bạn rất tin tưởng vào một khoản đầu tư nào đó, việc đổ nhiều vốn vào nó nghe có vẻ là một ý hay. Nhưng việc cho hết trứng vào một hoặc hai giỏ luôn hết sức rủi ro.
Cần phải luôn đảm bảo sự đa dạng hóa danh mục đầu tư và đừng bao giờ để cho một mã cổ phiếu nào chiếm nhiều hơn 10% danh mục của mình, cho dù bạn tin tưởng rằng “chắc chắn có lời”.
Một canh bạc lớn thường sinh lời lớn nếu nhận định của bạn là đúng, nhưng nó cũng có thể gây thiệt hại nghiêm trọng nếu điều ngược lại xảy ra. Do đó tốt hơn hết hãy chọn giải pháp an toàn và đa dạng hóa danh mục, cho dù điều đó có nghĩa là bạn không thể đầu tư “tất tay’ với mã cổ phiếu yêu thích.
5. Tính toán thời điểm gia nhập, rút lui
Có vô số bài viết chỉ ra rằng việc tính toán thời điểm gia nhập khi thị trường đi lên và rút lui khi thị trường sóng gió vừa có lợi nhưng cũng vừa có hại. Khi rút chân ra khỏi thị trường, nhà đầu tư sẽ khó tham gia ngay khi tình hình đảo chiều, nhưng khi vừa “nhảy” vào, rất có thể họ lựa chọn không đúng thời điểm để mua.
Chưa kể đến các khoản phí giao dịch và các khoản thuế thu nhập đánh vào thu nhập từ vốn đầu tư, áp lực nhà đầu tư phải chịu cũng tăng lên. Do vậy, trừ trường hợp không còn lựa chọn khác, hãy là một nhà đầu tư kiên trì, dài hạn thay vì liên tục “nhảy” vào/ra khỏi thị trường.

Cùng tìm hiểu việc: Tự gặm chân cũng phải biết cách

Hai sản phẩm này tuy đã mở ra một thị trường mới cho Coca-Cola nhưng vẫn liên tục gặm mất khá nhiều doanh số của sản phẩm nước ngọt truyền thống vì người tiêu dùng ngày càng sợ bị béo phì. Dù vậy, vẫn có những đơn vị biết tận dụng cannibalization một cách thông minh để đem về lợi nhuận khổng lồ.
Tự tước đoạt doanh thu (cannibalization) xảy ra khi doanh nghiệp giảm doanh số hoặc thị phần sản phẩm hiện tại của họ do tung ra sản phẩm mới tương tự.
Sản phẩm mới có thể thay đổi nhu cầu của thị trường và khiến sản phẩm cũ bị mất chỗ đứng
Ở những lĩnh vực có tốc độ cải tiến và đổi mới nhanh chóng như công nghệ, các hãng đều phải liên tục tung ra sản phẩm mới, chấp nhận cannibalization để có thể tiếp tục cạnh tranh.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là liệu các sản phẩm đó có giúp họ đạt được doanh số, thị phần hay những mục tiêu khác như kỳ vọng hay không.
Apple (Mỹ) là một hãng công nghệ thực hiện cannibalization có kiểm soát và thành công. Trong cuộc họp cổ đông gần đây, CEO Tim Cook của Hãng đã chia sẻ triết lý của Apple trong việc giới thiệu các sản phẩm mới.
“Việc các sản phẩm tương tự làm mất thị phần của nhau là một cơ hội lớn cho chúng tôi. Triết lý cốt lõi của Apple là không bao giờ sợ sản phẩm tự cạnh tranh nhau. Nếu chúng ta không làm điều đó thì người khác cũng sẽ làm.
Chúng tôi biết iPhone đã tranh mất một mảng thị phần của iPod, điều đó không làm chúng tôi lo lắng. Chúng tôi cũng biết rằng iPad sẽ khiến việc kinh doanh một vài mẫu máy tính Mac bị giảm đi, nhưng đó cũng không phải là mối quan ngại”, ông nói.
Lấy ví dụ của chiếc iPad, Tim Cook cho rằng việc chiếc máy tính bảng này ra đời đã tạo cho Apple có cơ hội dẫn đầu một mảng trước đây có rất ít hãng tham gia. Khi thị trường máy tính dùng Windows (hệ điều hành của Microsoft) lớn hơn nhiều so với thị trường của máy Mac, việc Apple hy sinh một phần doanh thu từ mảng máy tính để tham gia vào lĩnh vực máy tính bảng là hoàn toàn xứng đáng.
Cũng theo Tim Cook, nếu có ai đó mua iPad mini hoặc iPad và nếu đây là sản phẩm Apple đầu tiên của họ, một số trong những người này sẽ tiếp tục mua các sản phẩm khác của hãng. Trong lịch sử của Apple, điều tương tự từng diễn ra khi máy nghe nhạc iPod ra đời đã ảnh hưởng tích cực đến doanh số máy Mac.
Hiện tượng cannibalization cũng diễn ra phổ biến trong các công ty kinh doanh nhiều dòng sản phẩm tương tự. Tuy nhiên, đó thường là con dao 2 lưỡi. Bên cạnh việc mở rộng thị phần cho công ty, sản phẩm mới còn có thể cạnh tranh trực tiếp với các dòng sản phẩm cũ, thậm chí làm thay đổi hoàn toàn nhu cầu của thị trường khiến sản phẩm cũ bị mất chỗ đứng.
Một ví dụ kinh điển cho trường hợp này là việc Coca-Cola tung ra dòng sản phẩm Diet Coke, sau đó là Coke Zero ít đường với ý định nhắm vào đối tượng quan tâm đến sức khỏe.
Hai sản phẩm này tuy đã mở ra một thị trường mới cho Coca-Cola nhưng vẫn liên tục gặm mất khá nhiều doanh số của sản phẩm nước ngọt truyền thống vì người tiêu dùng ngày càng sợ bị béo phì. Dù vậy, vẫn có những đơn vị biết tận dụng cannibalization một cách thông minh để đem về lợi nhuận khổng lồ.
Gillette là thương hiệu chăm sóc sắc đẹp dành cho nam thuộc Tập đoàn P&G. Một trong những sản phẩm nổi tiếng của họ là dao cạo râu Mach 3 đã chiếm lĩnh thị trường toàn cầu gần một thập kỷ.
Tuy nhiên, khi dao cạo Fusion ProGlide được tung ra thị trường, thay vì đẩy mạnh marketing để tìm kiếm thêm khách hàng, thương hiệu này lại kêu gọi khách hàng hiện hữu thay thế Mach 3 bằng Fusion ProGlide. Điều này đồng nghĩa với việc Gillette chủ động cho doanh số sản phẩm mới ăn hết phần của sản phẩm cũ.
Chiến lược này thành công đến nỗi Fusion ProGlide chỉ mất có 2 năm để đạt đến cột mốc 1 tỉ USD doanh thu, nhanh nhất trong lịch sử tất cả các nhãn hàng của P&G và hiện là sản phẩm dao cạo râu bán chạy nhất thế giới.
Và tất cả đều nhờ vào chiến dịch truyền thông cực kỳ thuyết phục đã khiến cho hầu hết nam giới đang dùng Mach 3 ở Anh và Bắc Mỹ quyết định đổi sang dùng Fusion ProGlide, cho dù loại dao cạo mới có giá đắt hơn 40% so với sản phẩm cũ.
Có thể thấy, các nhà sản xuất đều tính toán kỹ về khả năng doanh số sản phẩm mới ăn vào doanh số sản phẩm cũ cùng loại. Từ đó, họ lên kế hoạch cho chu kỳ ra sản phẩm mới và chiến lược định giá phù hợp miễn sao cho doanh thu tăng. Bằng không, việc tung ra sản phẩm mới ào ạt không kiểm soát sẽ để lại hậu quả khôn lường.
Cách đây vài năm, Nokia (Phần Lan) và Samsung (Hàn Quốc) từng đấu tay đôi với nhau trên thị trường Việt Nam. Hãng Nokia khi đó cứ vài tháng lại tung ra hàng chục dòng máy mới từ cao cấp cho đến bình dân.
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các sản phẩm cùng phân khúc lại không rõ ràng, chưa có sự đột phá về công nghệ dẫn đến việc khách hàng bối rối và ngần ngại khi quyết định mua máy mới.
Trong khi đó, dù đi sau và cũng cho ra đời hàng loạt mẫu điện thoại đủ mọi phân khúc nhưng Samsung lại có kết quả kinh doanh khả quan hơn vì những thay đổi về công nghệ trong các sản phẩm mới là tương đối rõ ràng, thu hút được sự quan tâm của thị trường. Ngày nay, Samsung đã thế chỗ Nokia trở thành nhà sản xuất điện thoại di động dẫn đầu không chỉ tại Việt Nam mà còn cả trên thế giới.